Bài viết trình bày nguồn gốc ra đời và thực tiễn áp dụng học thuyết Forum non conveniens tại một số nước, liên quan tới việc tòa án quốc gia có thể từ chối thụ lí một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu có lý do để tin rằng toà án một nước khác phù hợp hơn. Là một học thuyết được áp dụng rộng rãi tại các nước thuộc hệ thống pháp luật thông luật (common law), học thuyết forum non conveniens được du nhập một phần hoặc toàn bộ tại một số nước và vùng lãnh thổ thuộc hệ thống pháp luật dân luật (civil law). Việc áp dụng này đem lại cho chúng ta một ví dụ điển hình cho việc kết hợp các ưu điểm của hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều khó khăn gặp phải trong thực tế đối với cả hệ thống tư pháp và các bên tranh chấp, học thuyết này không nên được đưa vào áp dụng tại Việt Nam.
This article examines the origin and practical application of the doctrine of Forum non conveniens, relating to the declination of international jurisdiction by the national courts in transnational litigations, in several countries, if they are convinced that the authority of another country is far more appropriate. Frequently applied in common law countries, the doctrine of forum non conveniens has been imported, partly or completely, in some countries/territories of civil law. This practice has been giving us a typical example of combining the advantages of the two major legal systems in the world. However, with many difficulties encountered in practice for both the judicial system and the disputing parties, this doctrine should not be applied in Vietnam.
Mục lục
1. Lịch sử hình thành học thuyết Forum non conveniens
1.1. Sự ra đời của học thuyết FNC tại Scotland (Xcốt-len)
1.2. Học thuyết được phát triển mạnh mẽ tại Hoa Kỳ
2. Tình hình áp dụng học thuyết tại một số nước thông luật khác
2.1. Anh
2.2. Úc
2.3. Canada
3. Vấn đề tiếp nhận học thuyết tại các nước dân luật
3.1. Nước Đức và Liên minh châu Âu
3.2. Nhật Bản
3.3. Tỉnh Quebec thuộc Canada
4. Có nên đưa học thuyết FNC vào luật Việt Nam?
Tài liệu tham khảo
Tóm tắt
Bài viết trình bày nguồn gốc ra đời và thực tiễn áp dụng học thuyết Forum non conveniens tại một số nước, liên quan tới việc tòa án quốc gia có thể từ chối thụ lí một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu có lý do để tin rằng toà án một nước khác phù hợp hơn. Là một học thuyết được áp dụng rộng rãi tại các nước thuộc hệ thống pháp luật thông luật (common law), học thuyết forum non conveniens được du nhập một phần hoặc toàn bộ tại một số nước và vùng lãnh thổ thuộc hệ thống pháp luật dân luật (civil law). Việc áp dụng này đem lại cho chúng ta một ví dụ điển hình cho việc kết hợp các ưu điểm của hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều khó khăn gặp phải trong thực tế đối với cả hệ thống tư pháp và các bên tranh chấp, học thuyết này không nên được đưa vào áp dụng tại Việt Nam.
Từ khoá: forum non conveniens, tư pháp quốc tế
Abstract
This article examines the origin and practical application of the doctrine of Forum non conveniens, relating to the declination of international jurisdiction by the national courts in transnational litigations, in several countries, if they are convinced that the authority of another country is far more appropriate. Frequently applied in common law countries, the doctrine of forum non conveniens has been imported, partly or completely, in some countries/territories of civil law. This practice has been giving us a typical example of combining the advantages of the two major legal systems in the world. However, with many difficulties encountered in practice for both the judicial system and the disputing parties, this doctrine should not be applied in Vietnam.
Keywords: forum non conveniens, private international law
Forum non conveniens (FNC) là một học thuyết được áp dụng rộng rãi tại các nước thuộc hệ thống thông luật (common law) như là một ngoại lệ đối với thẩm quyền của tòa án quốc gia trong các vụ việc dân sự (VVDS) có yếu tố nước ngoài (YTNN). Mặc dù mang đặc trưng của hệ thống thông luật, học thuyết này ra đời bắt nguồn từ sự kết hợp giữa hai hệ thống pháp luật chính trên thế giới là thông luật (common law) và dân luật (civil law).
Do một số lợi ích thực tế mà học thuyết đem lại, một số nước/vùng lãnh thổ thuộc hệ thống pháp luật dân luật cũng đã đưa vào áp dụng học thuyết này, thông qua luật hoặc thực tiễn tòa án. Học thuyết FNC là một ví dụ điển hình cho sự giao thoa giữa hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới. Sự kết hợp này có thể mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng gặp nhiều vướng mắc trong quá trình thực thi.
Trong tư pháp quốc tế, mỗi nước đều xây dựng các quy định riêng nhằm xác định khi nào tòa án nước mình có hoặc không có thẩm quyền xét xử đối với các tranh chấp vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ của mình. Các nước thường có xu hướng quy định khá rộng để các bên trong vụ việc có YTNN có thể dễ dàng tiếp cận với tòa án quốc gia. Do tồn tại cùng lúc nhiều hệ thống tư pháp, có thể dẫn tới cùng một vụ việc, tòa án của nhiều quốc gia đều có thẩm quyền (được gọi là xung đột thẩm quyền trong TPQT) và nguyên đơn có thể lựa chọn một trong số các tòa án có thẩm quyền để nộp đơn kiện (gọi là hiện tượng forum shopping).
Vì các lý do thực tế, các tình huống xung đột thẩm quyền là không thể tránh khỏi. Một trong những cách để hạn chế xung đột này là tòa án từ chối xét xử đối với những vụ việc mà tòa cho rằng không phù hợp, không liên quan hoặc một tòa án quốc gia khác sẽ thích hợp hơn để xét xử vụ việc này, sau khi xem xét tổng hợp nhiều yếu tố, cả chủ quan lẫn khách quan. Việc tòa án một nước từ chối thụ lí vụ việc có YTNN, mặc dù tòa án đó có thẩm quyền, với lí do vụ việc nên đưa ra xem xét trước tòa án của một nước khác, được coi là tòa án thích hợp hơn, chính là nội dung cơ bản của học thuyết FNC .
Trong bài viết này, tác giả sẽ giới thiệu lịch sử ra đời và phát triển của học thuyết, thực tiễn áp dụng học thuyết tại một số nước và vùng lãnh thổ. Song song với đó, tác giả phân tích các ưu nhược điểm của học thuyết và đánh giá khả năng áp dụng học thuyết này tại Việt Nam.
1. Lịch sử hình thành học thuyết Forum non conveniens
Học thuyết FNC được áp dụng rộng rãi tại các nước thông luật và được tiếp nhận tại một số hệ thống pháp luật dân luật. Tuy nhiên, khi xem xét lịch sử ra đời của học thuyết, chúng ta sẽ thấy một điểm thú vị rằng học thuyết này ra đời do sự giao thoa các giá trị của hai hệ thống pháp luật lớn là thông luật và dân luật. Điều này giải thích tại sao học thuyết này không bắt nguồn từ nước Anh, mặc dù nó được coi là sản phẩm của hệ thống thông luật, mà nước Anh là cha đẻ.
1.1. Sự ra đời của học thuyết FNC tại Scotland (Xcốt-len)
Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về nguồn gốc thực sự của học thuyết FNC. Nhiều học giả cho rằng học thuyết này ra đời và được phổ biến tại Scotland1. Trước khi trở thành một thành viên của Liên hiệp Anh và Bắc Ai Len, Scotland chịu ảnh hưởng La Mã trong một thời gian dài bị đế quốc này xâm chiếm. Vào thế kỉ XIV, pháp luật Scotland phát triển dưới sự ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật Pháp. Theo giải thích của tác giả Herzog, sự ảnh hưởng này là do giới luật gia được đào tạo tại các trường đại học của Pháp, và do đó, luật tố tụng dân sự của Scotland mang đậm đặc trưng của dân luật chứ không phải thông luật2.
Theo pháp luật Pháp, về mặt nguyên tắc, tòa án Pháp không có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp giữa người nước ngoài. Ngược lại, tại Anh, hệ thống tòa án lại rất mở đối với các vụ việc có YTNN và do đó, người nước ngoài có quyền đưa bất kỳ tranh chấp nào của mình lên tòa án. Về mặt thẩm quyền, luật Scotland chịu ảnh hưởng của luật Pháp và áp dụng nguyên tắc chung của dân luật về xác lập thẩm quyền là actor sequitur forum rei (tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi bị đơn cư trú, ngoại trừ đối với các vụ việc liên quan tới tài sản, tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi có tài sản). Mặt khác, luật Scotland cũng chịu một phần ảnh hưởng của luật Anh, thể hiện ở chỗ trong luật tố tụng Scotland, một trong những căn cứ xác lập thẩm quyền của tòa án là sự có mặt của bị đơn tại Scotland khi đơn kiện được tống đạt (forum arresti)3. Trên thực tế, để hạn chế người nước ngoài tiếp cận tòa án (do ảnh hưởng của luật Pháp), các tòa án Scotland đã đề ra các quy định hạn chế như : người nước ngoài phải cư trú tại Scotland một khoảng thời gian nhất định mới có quyền khởi kiện trước tòa án Scotland.
Các tác giả do đó tin rằng học thuyết FNC ra đời trên cơ sở sự xung đột giữa các quy tắc tố tụng trái ngược nhau của hai hệ thống pháp luật cùng có sức ảnh hưởng tại Scotland, đó là thông luật, nơi mà thẩm quyền tòa án mở rộng tuyệt đối cho các vụ việc liên quan tới người nước ngoài và dân luật, nơi mà cánh cửa tòa án gần như đóng hoàn toàn đối với người nước ngoài.
Thuật ngữ đầu tiên được tìm thấy trong án lệ Scotland vào thế kỷ XVIII là forum non competens (tòa án không có thẩm quyền), được tòa án viện dẫn trong một số vụ việc để từ chối thụ lý, với lí do sẽ hợp lý hơn cho tất cả các bên nếu vụ việc được đưa ra xét xử tại tòa án của một quốc gia khác4. Trong vụ Sim kiện Robinow 5 vào năm 1892 , Thẩm phán Kinnear đã đặt nền tảng chính thức cho học thuyết và gọi nó với cái tên forum non conveniens (tòa án không thích hợp) :
Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu đình chỉ vụ việc trên cơ sở forum non conveniens, trừ khi Tòa đồng ý rằng một tòa án khác có thẩm quyền thụ lý vụ việc sẽ thích hợp hơn để đảm bảo lợi ích của tất cả các bên và vì mục tiêu của công lý.
Tên gọi forum non conveniens phản ánh chính xác hơn nội dung của học thuyết, bởi vì việc tòa án từ chối thụ lí không phải do tòa án không có thẩm quyền, mà ngược lại, tòa án tuy có thẩm quyền nhưng cho rằng mình không thích hợp để xét xử vụ việc có liên quan.
Tòa án Scotland đã từng bước xây dựng các tiêu chí áp dụng học thuyết, chẳng hạn như cần xem xét tới khả năng triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ, luật áp dụng để xét xử vụ việc, mức độ phiền hà mà bị đơn gặp phải nếu đưa vụ việc ra xét xử trước tòa án Scotland. Tóm lại, tòa án phải căn cứ trên một loạt các tiêu chí để xem xét trước khi quyết định mình không phải là tòa án thích hợp.
1.2. Học thuyết được phát triển mạnh mẽ tại Hoa Kỳ
Nếu như học thuyết FNC có thể được coi là ra đời tại Scotland, thì chính tại Hoa Kỳ mà học thuyết được áp dụng một cách rộng rãi nhất6.
Cho tới tận cuối thế kỷ XIX, các quy định về thẩm quyền của tòa án Hoa Kỳ vẫn còn khá mơ hồ. Năm 1878, lần đầu tiên Tòa án tối cao Hoa Kỳ đề ra các nguyên tắc cơ bản xác định thẩm quyền của các tòa án Hoa Kỳ, tương tự như các nguyên tắc mà tòa án Anh áp dụng thời đó, đặc biệt là nguyên tắc thẩm quyền xác lập trên cơ sở đơn kiện được tống đạt trên lãnh thổ quốc gia7.
Tòa án Hoa Kỳ đôi khi cũng từ chối thụ lí vụ việc để tránh quá tải, nhưng các căn cứ từ chối không thống nhất và cũng không được áp dụng một cách có hệ thống. Trong một số vụ việc, tòa từ chối đơn kiện với lí do bị đơn không cư trú tại địa phương nơi có tòa án8. Trong một số vụ việc khác, tòa án lại cho rằng căn cứ này là vi hiến, do Tu chính án thứ 14 Hiến pháp Hoa Kỳ đã quy định rõ nguyên tắc đối xử quốc gia áp dụng cho công dân của bất kỳ quốc gia nào tại quốc gia này9.
Học thuyết FNC của Scotland lần đầu được du nhập vào Hoa Kỳ năm 1929 với đề xuất của luật sư Paxton Blair, nhằm mục đích giảm tải cho các tòa án Hoa Kỳ đối với các vụ việc ít có mối liên hệ với Tòa án. P. Blair cũng đưa ra các lập luận bác bỏ quan điểm cho rằng học thuyết này đi ngược lại với các quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ10.
Năm 1932, Tòa án tối cao Hoa Kỳ phán quyết rằng quyền từ chối xét xử của các tòa án không chỉ giới hạn ở các vụ việc liên quan tới hàng hải11. Điều này mở ra cơ hội để học thuyết FNC được chấp nhận và áp dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ. Nhưng phải đợi đến năm 1947, Tòa án tối cao Hoa Kỳ mới chính thức công nhận học thuyết FNC trong phán quyết Gulf Oil Corp kiện Gilbert 12. Trong phán quyết của mình, Tòa án tối cao đã ấn định các yếu tố cần xem xét để tòa án từ chối thụ lý vụ việc, bao gồm một số yếu tố liên quan tới các bên (khó khăn trong việc triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ, chi phí đi lại tốn kém của các nhân chứng, mức độ phiền hà gây ra cho bị đơn) và một số yếu tố liên quan tới lợi ích công cộng (chẳng hạn mức độ quá tải của các tòa án, luật áp dụng không phải là luật nơi có tòa án, không kịp đáp ứng thời hạn đặt ra, khả năng phán quyết trái ngược nếu được thụ lí tại một tòa án khác, v.v.). Nơi cư trú của các bên là một trong những yếu tố mang tính quyết định để Tòa xem xét. Chẳng hạn, nếu bị đơn cư trú tại nơi có tòa án thì không thể viện dẫn học thuyết FNC . Các tòa án phải xem xét và cân nhắc một cách tổng thể mọi yếu tố công và tư để xác định đâu là tòa án thích hợp nhất để xét xử vụ việc13.
Cho đến trước năm 1981, học thuyết này mới chỉ được áp dụng cho các vụ việc liên tiểu bang. Năm 1981, lần đầu tiên học thuyết FNC được áp dụng trong một vụ việc có liên quan tới người nước ngoài. Thân nhân của một người Scotland, chết do tai nạn giao thông tại Scotland năm 1976 khởi kiện nhà sản xuất chiếc máy bay gây tai nạn trước tòa án Hoa Kỳ. Tòa án bang Pennsylvania đã bác đơn kiện trên cơ sở học thuyết FNC , bởi vì vào thời điểm tai nạn, chiếc máy bay thuộc sở hữu của hãng hàng không Scotland, nạn nhân là người Scotland và tai nạn xảy ra tại Scotland và do chính quyền Scotland tiến hành điều tra. Tòa án bang Pennsylvania cho rằng tòa án Scotland mới là tòa án phù hợp để xét xử vụ việc này và mục đích của nguyên đơn khởi kiện ở Hoa Kỳ là do hi vọng nhận được mức bồi thường cao hơn. Phán quyết này bị bác tại cấp phúc thẩm nhưng lại được Tòa án Tối cao công nhận trên nguyên tắc xem xét tổng thể các yếu tố. Mặc dù bị đơn có trụ sở tại Pennsylvania, song tổng hợp các yếu tố xem xét cho thấy Tòa án nước ngoài (trong trường hợp này là Tòa án Scotland) phù hợp hơn để xét xử vụ việc. Ở một khía cạnh khác, việc áp dụng học thuyết FNC còn cho phép loại trừ các trường hợp gian lận do quyền forum shopping đem lại14.
2. Tình hình áp dụng học thuyết tại một số nước thông luật khác
2.1. Anh
Như đã đề cập, thẩm quyền của tòa án Anh đối với các vụ việc có YTNN được xác lập dễ dàng, chỉ cần bị đơn có mặt trên lãnh thổ nước Anh vào thời điểm tống đạt đơn kiện. Để đối trọng với khả năng tiếp cận tòa án dễ dàng này, các thẩm phán Anh có quyền tự do lớn trong việc chấp nhận thụ lý hay không thụ lý một vụ việc, đây là một nguyên tắc trụ cột của hệ thống tư pháp Anh15. Ngay từ thế kỉ XVII, các tòa án Anh đã từ chối xét xử một số vụ việc về li hôn và hàng hải với lí do không phải là toà án thích hợp, nhưng khi đó học thuyết FNC chưa được hình thành.
Khi học thuyết FNC ra đời tại Scotland và được du nhập vào Anh, các tòa án tại đây cũng theo bước các tòa án Scotland đề ra các tiêu chí để xem xét áp dụng học thuyết, bao gồm : khả năng trùng tố, khả năng gian lận của nguyên đơn, lợi ích của bị đơn sẽ được đảm bảo hơn nếu được xét xử ở tòa án nước khác, khả năng luật nước ngoài sẽ được áp dụng, v.v. Trong số các tiêu chí xem xét, tòa án chú trọng tới việc đảm bảo lợi ích của bị đơn : nếu việc xét xử trước tòa án Anh gây nhiều khó khăn cho bị đơn trong việc bào chữa, thay vào đó, việc xét xử ở một tòa án nước khác sẽ thuận lợi hơn cho bị đơn, khi đó, tòa án Anh sẽ từ chối xét xử theo học thuyết FNC .
Như vậy, khác với thực tiễn tòa án Hoa Kỳ nơi việc xem xét tổng thể nhiều yếu tố là căn cứ để áp dụng học thuyết FNC, các tòa án Anh chủ yếu xem xét tới những thuận lợi và khó khăn đối với bị đơn, nói cách khác, tòa chú trọng vào 2 yếu tố : mức độ phiền hà đối với bị đơn và khả năng gian lận của nguyên đơn khi chọn tòa án Anh để khởi kiện.
Năm 1984 đã chứng kiến một thay đổi lớn trong cách tiếp cận của Tòa án Anh. Trong phán quyết Abidin Daver 16 , Tòa án tối cao đã loại trừ hoàn toàn tiêu chí « phiền hà cho bị đơn » và yêu cầu các tòa án phải quyết định tòa án nào là thích hợp nhất (forum conveniens) trên cơ sở cân nhắc lợi và hại.
Với phán quyết Abidin Daver, học thuyết FNC được chấp nhận và áp dụng hoàn toàn ở Anh. Việc áp dụng học thuyết được hoàn thiện tiếp sau đó với án lệ Spiliada 17 , thiết lập nên quy trình áp dụng forum non conveniens mà nhiều tòa án tại các nước thông luật khác (như Úc và Canada) vẫn áp dụng cho tới nay. Quy trình này tóm tắt như sau : bị đơn có quyền viện dẫn học thuyết để yêu cầu tòa án Anh từ chối thụ lí vụ việc, nếu chứng minh được có tòa án khác phù hợp hơn, trừ phi nguyên đơn đưa ra được các bằng chứng cho thấy nếu vụ việc không được xét xử tại tòa án Anh, « lợi ích chính đáng của họ sẽ không được bảo vệ. Tòa án Anh sẽ phải căn cứ trên lập luận của các bên để cân nhắc những điểm lợi và bất lợi từ cả hai phía và xác định đâu là tòa án thích hợp nhất. Nếu tòa án nước ngoài được xác định là tòa án thích hợp, tòa án Anh sẽ được coi là forum non conveniens. Ngược lại, tòa án Anh cũng có thể đi đến kết luận Tòa án Anh là tòa án thích hợp (forum conveniens). Các tiêu chí và phương pháp xác định forum conveniens và forum non conveniens là giống nhau.
Với phán quyết Spiliada, phương pháp vận dụng học thuyết này của các tòa án Anh trở nên gần hơn với phương pháp áp dụng tại Scotland nơi học thuyết ra đời.
2.2. Úc
Thực tiễn tòa án Úc đầu thế kỷ XX cho thấy ban đầu học thuyết FNC được áp dụng thông qua việc đánh giá mức độ phiền hà đối với các đương sự nếu vụ việc đưa ra xét xử tại tòa án Úc, cũng như khả năng nguyên đơn lạm dụng quyền tố tụng khi khởi kiện lên tòa án Úc18.
Năm 1988, trong một vụ kiện tranh cãi về thẩm quyền của các tòa án Úc liên quan tới tranh chấp hợp đồng có YTNN19, Tòa cấp cao Úc đã xem xét một cách kĩ lưỡng cách thức áp dụng học thuyết FNC trong án lệ Spiliada của Tòa tối cao Anh20. Quan điểm của các thẩm phán Úc trong vụ việc này bị chia rẽ sâu sắc theo 3 cách tiếp cận khác nhau. Thẩm phán Brennan phản đối phương pháp áp dụng forum non conveniens mà án lệ Spiliada đặt ra bởi « nó trái ngược với chức năng và nhiệm vụ của tòa án » khi yêu cầu thẩm phán Úc phải tiến hành cân nhắc, so sánh với các tòa án nước ngoài, bởi việc so sánh sẽ dẫn tới hệ quả tất yếu là thẩm phán phải xem xét tới pháp luật nước ngoài và chức năng của tòa án nước ngoài, một việc không thể thực hiện được. Thẩm phán Brennan cho rằng tòa án Úc vẫn nên áp dụng các tiêu chí truyền thống như mức độ phiền hà gây ra cho các bên và sự lạm dụng về thủ tục của nguyên đơn để quyết định Tòa án Úc có phải là tòa án thích hợp hay không (forum conveniens hay forum non conveniens)21. Các thẩm phán Deane và Gaudron thì cho rằng nhiệm vụ chứng minh tòa án không thích hợp thuộc về bị đơn và phép thử phải được thực hiện một cách chặt chẽ để chứng minh tòa án Úc là tòa án « rõ ràng không thích hợp » (clearly inappropriate forum)22. Hai thẩm phán này cho rằng các tiêu chí xem xét mà án lệ Spiliada đề ra có thể được sử dụng để chứng minh, và như vậy thì « Tòa án Hy Lạp là tòa án thích hợp nhất (most appropriate forum) »23. Các thẩm phán Wilson và Toohey lại áp dụng phép thử « mối quan hệ thực sự và đáng kể » (real and substantial connection) để xác định tòa án nào là tòa án thích hợp nhất để xét xử vụ việc24.
Trong các vụ việc sau đó, các tòa án Úc vẫn tiếp tục có quan điểm trái ngược nhau. Tuy nhiên cách tiếp cận tổng thể trong áp dụng học thuyết FNC cũng dần được định hình . Thứ nhất, phương pháp do thẩm phán Brennan đề xuất – chỉ xem xét mức độ gây phiền hà cho các bên và khả năng lạm dụng thủ tục của nguyên đơn – bị bác bỏ, do các tiêu chí xem xét này được coi là quá hẹp, có thể dẫn tới một tòa án không có mấy liên quan tới vụ việc vẫn có thể xét xử mà không thể viện dẫn forum non conveniens, vì không đáp ứng hai tiêu chí nói trên. Thứ hai, phương pháp được đề xuất trong án lệ Spiliada cũng bị bác bỏ với lý do phép thử để tìm ra tòa án thích hợp hơn có thể gặp khó khăn do nhiều tòa án cùng lúc có thể được coi là thích hợp hơn và phương pháp này thiếu tính dự đoán do không thể cân nhắc hết được các tòa án có liên quan.
[...]
1 Xem A. Reus, « Judicial Discretion: A Comparative View of the Doctrine of Forum Non Conveniens in the United States, the United Kingdom, and Germany » (Quyền tự do suy xét của Tòa án: Học thuyết forum non conveniens tại Hoa Kỳ, Anh và Đức từ quan điểm so sánh), (1994) 16 Loy. L.A. Int’l & Comp. L. J. 455 (Tạp chí luật quốc tế và so sánh Đại học Loyola Los Angeles số 16 năm 1994, tr. 455).
2 P. Herzog, « La théorie du forum non conveniens en droit anglo-américain : un aperçu » (Học thuyết forum non conveniens trong pháp luật Anh-Mỹ : khái quát), (1976) RCDIP 2 (Tạp chí Tư pháp quốc tế năm 1976, tr. 2).
3 Guillemard, Sylvette, Prujiner, Alain & Sabourin, Frédérique, « Les difficultés de l’introduction du forum non conveniens en droit québécois » (Những khó khăn trong việc tiếp nhận học thuyết forum non conveniens trong luật Québec) (1995) 36 C. de D. 913 (Tạp chí luật đại học Laval số 36 năm 1995, tr. 913), tại các tr. 916-917.
4 Alan Dashwook và các tác giả khác, A Guide to the Civil Jurisdiction and Judgments Convention (Hướng dẫn áp dụng Công ước về thẩm quyền và công nhận phán quyết dân sự nước ngoài), 1987, tr. 425.
5 Sim vs Robinow, 1892 Sess. Cas. 665 (Scot. 1st Div.), tr. 668.
6 Có hai lý do giải thích cho sự phát triển này, đó là tính chất liên bang và các luồng di dân mạnh mẽ tại Hoa Kỳ là nguyên nhân bùng nổ các quan hệ tư pháp quốc tế và việc các tòa án Hoa Kỳ không giới hạn trong xác định khoản tiền bồi thường thiệt hại dẫn tới việc các tòa án này thường được nguyên đơn lựa chọn để đệ đơn kiện trên cơ sở quyền forum shopping.
7 Pennoyer kiện Neff, 95 U.S. 174 (1787).
8 Herzog, tlđd tại chú thích số 2, trang 9. Chẳng hạn trong các vụ Gardner kiện Thomas, 14 Johns. 134 (N.Y. Sup. Ct. 1817); Collard kiện Beach, 87 N.Y.S. 884 (1904).
9 Garder kiện Thomas, 14 Johns. 134, Tòa cấp cao New York (1817), Collard kiện Beach, 87 N.Y.S. 884 (1904).
10 P. Blair, « The Doctrine of Forum Non Conveniens in Anglo-American Law » (Học thuyết forum non conveniens trong pháp luật Anh-Mỹ), (1929) 29 Colum L. Rev. 1 (Tạp chí luật Columbia số 29 năm 1929, tr. 1).
11 Canada Malting Co. kiện Paterson S.S., 285 U.S. 413 (1932).
12 Gulf Oil Corp vs Gilbert (1947) 330 U.S. 501. Nguyên đơn là người bang Virginia khởi kiện công ty có trụ sở ở bang Pennsylvania lên Tòa án bang New York đòi bồi thường thiệt hại do cháy nhà mà lỗi được cho là do sự bất cẩn của Công ty. Nguyên đơn cho rằng toà New York có thẩm quyền vì Công ty này có hoạt động tại bang Virgina và New York. Tòa án New York từ chối thụ lý vì cho rằng Tòa án Bang Virginia mới là tòa án thích hợp. Phán quyết sơ thẩm bị bác ở cấp phúc thẩm nhưng lại được Tòa án tối cao Hoa Kỳ đồng tình trên cơ sở học thuyết forum non conveniens. Một điều cần lưu ý là vụ việc này không liên quan tới người nước ngoài mà là vụ tranh chấp giữa cá nhân, pháp nhân thuộc các bang khác nhau của Hoa Kỳ. Án lệ của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong vụ này sau đó đã được mở rộng áp dụng cho tất cả các vụ việc mang tính tư pháp quốc tế, dù diễn ra trong lãnh thổ Hoa Kỳ hay liên quan tới các quốc gia khác.
13 Như trên.
14 Thực vậy, các tòa án Hoa Kỳ thường rất được ưa chuộng trong các vụ việc đòi bồi thường thiệt hại do mức bồi thường mà tòa có thể ấn định là không giới hạn.
15 P. Meyer, « The Jurisdiction of the Courts as Affected by the Doctrine of Forum Non Conveniens » (Thẩm quyền của Tòa án trước tác động của Học thuyết forum non conveniens), (1964) 24 R. du B. 565 (Tạp chí Luật sư Canada, số 24 năm 1964, tr. 565), tại tr. 576.
16 Abidin Daver, 1984 2 W.L.R. 196 (House of Lords).
17 Spiliada Maritime Corporation kiện Cansulex Ltd, 1987 AC 460. Trong vụ việc này, bị đơn, một công ty Canada, viện dẫn học thuyết FNC để yêu cầu tòa án Anh từ chối thụ lí đơn kiện của nguyên đơn là một công ty Libye với lí do Tòa án Anh không thích hợp. Tuy nhiên, Tòa án không chấp nhận các lập luận của bị đơn và cho rằng mình là « toà án thích hợp » (forum conveniens) .
18 Maritime Insurance Co Ltd kiện Geelong Harbour Trust Commissioners, (1908) 6 CLR 194; Rutt kiện Metropolitan Underwriters (Australasia) Pty Ltd, 1929 SASR 426; Telford Panel and Engineering Works Pty Ltd kiện Elder Smith Goldsborough Mort Ltd, 1969 VR 193.
19 Oceanic Sun Line Special Shipping Co Inc kiện Fay (1988) 165 CLR 197. Trong vụ việc này, nguyên đơn (ông Fay) đặt một chỗ trên du thuyền của bị đơn (công ty vận tải hành khách Oceanic Sun Line) tham quan các đảo ở Hy Lạp. Đại lý bán hàng của công ty đưa cho ông Fay một tờ hối phiếu cho phép ông này có thể sử dụng để nhận vé tại tàu ở cảng Athens. Các điều khoản chung được in trên vé, trong đó điều 13 nói rằng mọi khiếu kiện đối với công ty vận tải chỉ được thực hiện tại Tòa án Athens. Trong chuyến du lịch, ông Fay bị thương và sau đó khởi kiện công ty du lịch tại Tòa tối cao bang New South Wales (là nơi ông ta đặt mua vé). Đơn kiện của ông bị bác ở cấp sơ thẩm và vụ việc tiếp tục đưa lên các cấp tiếp theo.
20 Xem mục 2.1.
21 Như trên, tr. 240.
22 Như trên, tr. 244-248.
23 Như trên, tr. 256.
24 Như trên, tr. 212.
- Quote paper
- Van Anh Ly (Author), 2023, Học thuyết Forum non conveniens trong xác định thẩm quyền tư pháp quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam, Munich, GRIN Verlag, https://www.hausarbeiten.de/document/1340299